Macrobiotics là một cách tiếp cận lối sống đầy đủ sửa chữa hoặc bổ sung cập nhật phổ biến nhất cho ung thư. Trọng tâm của macrobiotics là 1 trong bề ngoài ăn bao gồm là không ăn mặn, toàn đồ ăn đã trở nên chung vì các báo cáo điều kiện đáng chú ý về những cá thể được hiểu phục hồi từ ung thư với tiên đoán xấu do thực dưỡng và chứng cớ quan trọng đặc biệt cho thấy thêm nhiều yếu tố thực đơn được khuyến nghị bởi macrobiotics có tương quan đến việc giảm nguy cơ bệnh ung thư. phụ nữ thực hiện nguyên tắc ăn thực dưỡng có mức estrogen lưu thông tiết kiệm hơn một cách nhỏ, cho thấy thêm nguy cơ bệnh ung thư vú tiết kiệm hơn. Điều này rất có khả năng một trong những phần bởi vì hàm vị phytoestrogen cao trong cách thức ăn thực dưỡng. Như với hầu hết các tinh vi của ăn uống trong chữa bệnh bệnh ung thư, Có một số nghiên cứu giảm bớt reviews hiệu quả của cách thức ăn thực dưỡng trong công việc cắt giảm đau khổ hoặc đứng vững thời khắc sống của người bệnh ung thư. Một vài điều tra và nghiên cứu đã để so sánh thử dùng của không ít người bệnh ung thư đã làm dùng thực dưỡng với tỷ lệ tồn tại mong đợi hoặc một loạt các trường hợp tụ tập rất có thể biện minh cho nghiên cứu và điều tra chặt chẽ hơn. Trên cơ sở các chứng cớ có sẵn và sự như nhau của chính bản thân nó với các khuyến nghị về ăn uống để phòng ngừa bệnh lâu năm, qui định ăn thực dưỡng có khả năng giảm nguy cơ các bệnh ung thư. Tuy nhiên, Lúc Này, cửa hàng khoa học thực nghiệm cho hoặc cản lại các khuyến nghị sử dụng các loại thực phẩm nhân kiệt để điều trị các bệnh ung thư còn hạn chế. bất cứ đề xuất nào do vậy đều rất có khả năng phản chiếu thành kiến của người được giới thiệu. Vì sự chung của nó và chứng cớ thuyết phục rằng các chi tiết ăn uống là quan trọng trong căn nguyên và cuộc sống còn của ung thư, lý lẽ ăn ăn ít, thực dưỡng các món ăn giải pháp điều trị bệnh ung thư ngăn ngừa các bệnh ung thư định nghĩa chung cho rằng chế độ ăn uống có khả năng ảnh hưởng tác động đến tiến độ sinh các bệnh ung thư chưa phải là mới cũng như không nằm ngoài xu thế chính của quan niệm y sinh vật học. Các mục đích mà các yếu tố chế độ ăn uống khác nhau rất có khả năng đóng trong quá trình sinh ung thư và các dữ liệu dịch tễ học phong phú bằng chứng liên hệ của đồ ăn hoặc chất dinh dưỡng với việc ngăn ngừa các bệnh ung thư cũng được Viện nghiên cứu các bệnh ung thư Hoa Kỳ và Quỹ nghiên cứu ung thư trái đất lưu ý trong giải trình năm 1997 của họ ( số 8). xác định vào review sâu rộng này, 1 loạt các lời khuyên về chế độ ăn uống để ngừa bệnh ung thư cũng được phát triển cho giải trình. Những khuyến nghị này chỉ ra rằng một hình thức ăn dựa vào cây trồng cắt giảm tiêu thụ thịt đỏ và thịt sản xuất và quan tâm tiêu thụ loại rau, hoa quả và các loại hạt nguyên hạt, sẽ làm giảm khả năng mắc loại ung thư. thực dưỡng ohsawa pdf loại hình ăn kiêng được tác động bởi thực dưỡng, mặc dầu bắt nguồn đa phần từ các bề ngoài triết học ( 9 ), chủ yếu là không ăn mặn, tập trung vào thức ăn tự nhiên, chế tao tối thiểu. cho nên vì vậy, nó tương hợp bao bọc khắp với rất nhiều đề xuất về ăn uống, không những để ngăn chặn bệnh ung thư ( 8 , 10 ) mà còn để ngăn cản các bệnh lâu năm khác ( 11 , 12 ) và tăng cường sự khỏe mạnh ( 13). vì vậy, dù là thể hợp lí khi kiến nghị rằng hiệ tượng ăn thực dưỡng rất có thể tạo nền tảng cho một cách thức không ăn uống để đề phòng các bệnh này, nhưng vẫn chưa rõ liệu ăn uống có thể làm tiếp thời gian sống sót, giảm phản ứng đi kèm tức giận của hóa trị hoặc xạ trị hoặc ngăn chặn tiếp tục tái phát ung thư hay là không. . Việc thiếu tổng thể của chứng cớ thử nghiệm về vấn đề này đã được chứng nhận gần đây của cộng đồng ung thư Mỹ ( 14 ). Bài báo này tập trung vào các chứng cớ xúc tiến đến hiệ tượng ăn thực dưỡng đối với các bệnh ung thư. Thực dưỡng là gì? chung chung, thực dưỡng không chỉ là một phương thức chữa bệnh các bệnh ung thư. chính xác, thực từ dưỡng đã được dùng để diễn đạt một định hướng, một hướng phát triển văn hóa và một bề ngoài ăn uống. thực từ dưỡng được dùng bởi Bác Sỹ người Đức ở thế kỷ 18, Christoph Hufeland để biểu thị một công tác có sức khỏe tốt và tăng tuổi thọ ( 15 ) và được sử dụng gần đây bởi nhà sinologist người Anh Joseph Needham ( 16 ) để diễn tả định hướng nền tảng phần lớn quan điểm của người Trung Quốc về khoa học và y tế. giao diện cụ thể mà thực dưỡng là một cách tiếp cận với bệnh ung thư đã được bình thường lúc đầu bởi nhà triết học Japan George Ohsawa và các học sinh của ông, đặc biệt là Michio Kushi ( 17 tuổi ). hầu hết những người dân tự diễn tả mình là theo cách sống Thực dưỡng có thể chưa được chẩn đoán mắc ung thư hoặc những dịch bệnh cực kỳ nghiêm trọng khác; do đó, việc thực dưỡng là một trong số cách thức ăn kiêng để điều trị bệnh là một quan niệm sai lạc. Michio Kushi, người đề xướng thực dưỡng danh tiếng nhất trên thế giới, đã là Author của những bộ sách diễn tả cửa hàng triết học của thực dưỡng ( 9 , 18 ) cũng như động lực của chính ông để cống hiến đời sống mình cho thực dưỡng ( 18). Sự góp sức của ông khái niệm lý lẽ ăn thực dưỡng khởi nguồn từ những các bí quyết của ông với nhân cách là người chứng kiến tận mắt vụ việc sự tàn phá của Thế chiến II, các nghiên cứu tiếp nối của ông về khoa học chính trị và chọn lựa các giải pháp cho hòa bình nhân loại. Ông viết, “Tôi phân biệt rằng điều cần thiết là phải tịch thu các loại thực phẩm chính hãng, đa phần có tiếng tăm thoải mái và tự nhiên, cơ học và bán cho mọi GĐ với Ngân sách phù hợp. Chỉ khi đó, tinh thần mới có thể chuyển hóa và đã đạt được hòa bình thế giới ”( 18 , tr. 30). Kushi đã trình bày việc sử dụng từ thực dưỡng của bản thân mình: “mình đã áp dụng 'thực dưỡng' theo nghĩa gốc của chính bản thân nó, như 1 cách phổ biến về sức lực và tuổi thọ, bao gồm tất cả tầm nhìn tốt nhất rất có khả năng không những về chế độ ăn uống hơn nữa về của cả các khía cạnh của cuộc sống con người ta, thứ tự thoải mái và tự nhiên và sự tiến hóa thiên hà. Macrobiotics bao gồm tất cả hành động, suy nghĩ, hơi thở, tập luyện thể dục, các quan hệ, phong tục, truyền thống, ý tưởng phát minh và niềm tin, cũng như cách sống cá nhân và bạn thân được tìm ra trên khắp quả đât. “Theo nghĩa này, thực dưỡng chẳng những đơn giản dễ dàng hoặc chủ yếu là một cách thức không ăn uống. Macrobiotics là lối sống chung mà nhân loại đã phát triển về mặt sinh vật học, tâm lý và lòng tin và nhờ vậy chúng ta sẽ duy trì sức lực, sự thoải mái và ấm yên của mình. Macrobiotics bao gồm một phương pháp ăn kiêng nhưng mục đích của nó là đảm bảo an toàn sự "lưu trú" của thế giới và sự tiến hóa mà còn của chính bản thân nó trên trái đất này. Trong thực dưỡng — trí tuệ trực giác tự nhiên của Đông và Tây, Bắc và Nam — mình đã đưa ra Thuốc cho con người mà tôi đã lựa chọn. ” dù có cái nhìn tràn khắp về thực dưỡng được giải thích bởi những đoạn trích này, trong thời gian qua, thực dưỡng được biết đến phần nhiều như một phương pháp ăn kiêng khái niệm bệnh ung thư. Đây là không còn nghi ngại một phần do lịch sử dân tộc điều kiện đã nêu ở phí a trên ( 1 - 7 ). Điều này cũng được xác minh một trong những phần qua ấn phẩm của văn phòng và công sở đánh giá công nghệ tiên tiến, những cách điều trị bệnh ung thư lạ mắt , trong những số đó qui định ăn thực dưỡng được liệt kê với cách thức điều trị Gerson và cơ chế Kelley như một phương thức kiêng ăn thông thường để chữa trị các bệnh ung thư ( 19 ). bộ sách được coi cao về các liệu pháp chữa trị ung thư bổ sung của Lerner, gạn lọc trong điều trị: Tích hợp những phương pháp đi tới bổ sung và thông thường tốt nhất có thể khái niệm ung thư ( 20), dành một chương cho thực dưỡng. Thật vậy, phương pháp ăn thực dưỡng là một cách đi tới sửa chữa phổ biến nhất được bệnh nhân ung thư thực hiện ( 19 , 21 - 23 ). Ngoài chế độ ăn uống, các kỹ lưỡng khác của việc áp chế các hiệ tượng thực dưỡng cũng có thể có lợi cho việc ngăn chặn các bệnh ung thư, bao gồm tất cả việc chú tâm quan trọng chuyển động cơ thể, tránh chạm tới thuốc trừ sâu và các chất hóa học khác cũng như sự phản xạ điện từ và giảm bao tay ( 3 , 9 ) . Triết học thực dưỡng thúc đẩy quan niệm rằng các hiện tượng là tầm thường và có tương quan cho nhau, và cho nên vì vậy việc làm bằng thực dưỡng làm nên kính trọng bản chất ý thức của cuộc sống ( 9). Bên cạnh đó, một biện pháp can thiệp cách sống như macrobiotics giả định trước việc kéo tích cực của cá thể. Ăn thực dưỡng rất có khả năng hồi phục cảm giác gia thế và quyền tự quyết khi người bệnh thực hiện quy trình tích cực và lành mạnh để thay đổi quy trình chữa trị. ngoài ra, các phương pháp điều trị bệnh ung thư tầm thường vốn dĩ rất giận dữ vì người bị bệnh là người chào đón biện pháp có thể gây đau đớn và suy nhược tột đỉnh và toàn thể nằm ngoài tầm kiểm soát của bệnh nhân. Những yếu tố này cũng có thể quan trọng trong các công việc ngăn chặn và "lưu trú" bệnh ung thư và cải thiện chất lượng tốt cuộc đời của người bị bệnh ung thư ( 24 , 25 ). Chế độ ăn uống thực dưỡng gợi ý bề ngoài nhịn đói Macrobiotic cách thức ăn thực dưỡng tiêu chí chào bán một kích thước được sửa đổi phụ thuộc vào lứa tuổi, những cặp, mức độ vận động, sự đòi hỏi cá nhân và khoảng không gian của 1 người. Nó liên hiệp sự tôn trọng đối với thực phẩm cổ truyền và ảnh hưởng của khí hậu và mùa khái niệm sự có sẵn của các loại thực phẩm cũng như hoạt động cá thể và mạng xã hội. Nó cũng dựa phần nhiều vào việc áp chế các chế độ triết học phương Đông về âm và dương và các biểu hiện cửa hàng của năng lượng như thuyết năm sự biến đổi ( 9 ). cho nên vì thế, phép tắc ăn thực dưỡng được xếp đặt để đáp ứng nhu cầu của một cá thể hơn là đề đạt một hội tụ kết cấu cứng nhắc. hiệ tượng ăn thực dưỡng chỉ tiêu có thể được biểu đạt từ quan điểm bổ dưỡng đa lượng như một vẻ ngoài ăn quan tâm chính sách ăn đủ carbohydrate đa hợp, ít chất béo. 1 cuộc điều tra khảo sát khái niệm 50 người ăn theo lý lẽ thực dưỡng chứng nhận rằng tổng hàm lượng béo dung nạp bình quân chiếm 23% năng lượng và tổng lượng carbohydrate dung nạp trung bình chiếm 65% ánh sáng ( 26 ). lượng chất béo bão hòa trung bình chiếm 4,5% năng lượng, tiết kiệm hơn so với lượng chất béo không bão hòa đa, chiếm bình quân 7,1% ánh sáng. Lượng cholesterol trong ăn uống trung bình là 76 mg / ngày, chứng tỏ rằng mặc dầu cách thức ăn thực dưỡng không hẳn là một chế độ không ăn mặn nghiêm nhặt, nhưng chúng rất thấp lượng con vật. Trong phạm vi có thể, các loại thức ăn được khích lệ trồng theo cách thức hữu cơ và sản xuất ít nhất. chế độ ăn uống bao gồm các loại thực phẩm sau ( 3 , 9 ): 1 ) 40-60% trọng lượng là các loại hạt nguyên hạt. điều đó bao gồm tất cả gạo lứt, lúa mạch, kê, yến mạch, tiểu mạch, ngô, lúa mạch đen, kiều mạch và loại các loại hạt ngũ cốc khác ít thông thường hơn và các sản phẩm làm từ chúng như mì, mì ống và bánh mì. 2 ) 20–30% rau, tốt nhất là rau trồng tại địa phương, được sản xuất theo nhiều cách khác nhau. Điều này có thể gồm 1 lượng nhỏ rau sống hoặc rau ngâm. 3 ) 5–10% đậu loại, ví dụ như azuki, đậu gà hoặc đậu lăng; các sản phẩm từ đậu như đậu hũ, tempeh hoặc natto. 4) liên tiếp ăn rau biển, nấu với đậu hoặc làm món thức ăn riêng. 5 ) các loại thức ăn nhiều khi được hấp phụ Một vài lần mỗi tuần hoặc ít thường xuyên hơn, bao gồm hoa quả, cá thịt trắng, hạt và quả hạch. thực phẩm thường được tránh trong phép tắc ăn thực dưỡng chỉ tiêu bao gồm tất cả thịt và con vật, mỡ động vật bao gồm tất cả mỡ lợn hoặc bơ, trứng, các dịch vụ từ sữa, đường tinh luyện và thức ăn có chứa chất làm ngọt nhân tạo hoặc các chất phụ gia chất khác. Việc tiêu thụ thức ăn biến chứng gen cũng không được động viên. Trong giao diện của các bệnh ung thư, những hạn chế này rất có khả năng là tuyệt vời và hoàn hảo nhất trong một khoảng thời gian cho đến khi một số phục hồi xảy ra. câu truyện của cả Sattilaro ( 1 ) và Kohler ( 2 ) kể lại thời kỳ ban đầu mà của cả thức ăn con vật và củ quả đều phải tránh, tiếp đến là giai đoạn mà những các loại thực phẩm này được đưa quay lại vào nguyên tắc ăn của mình. vừa mới đây hơn, Michio Kushi, người ý kiến đề xuất chính của thực dưỡng, đã giới thiệu Kim tự tháp cuộc đời béo bệu thực dưỡng. vấn đề này được lý giải trong Hình 1 . có thể thấy, nó khác với những kim tự tháp gợi ý đồ ăn sửa chữa thay thế khác (ví dụ như kim tự tháp hướng dẫn thức ăn Địa Trung Hải ( 27 ) hoặc kim tự tháp gợi ý các loại thực phẩm chay ( 28 ) ở phần bao gồm tất cả ví dụ các loại rau biển và để ý, nhưng vẫn không thải trừ, củ quả ( nhưng không phải rau). tựa như những kim tự tháp chỉ dẫn thức ăn thay thế khác và không phải như Kim tự tháp chỉ dẫn đồ ăn USDA ( 29 ), lượng thịt đỏ và các loại thực phẩm từ sữa được thuyên giảm. Kim tự tháp cuộc sống béo múp, chỉ ra các gợi ý về phương pháp ăn thực dưỡng cho khí hậu lành tính. lưu ý rằng đây chính là những chỉ dẫn có khả năng được sắp đặt cho phù hợp với khí hậu và diện tích, di sản văn hóa hoặc dân tộc bản địa, người yêu, độ tuổi, chừng độ chuyển động, các mối ân cần về sức khỏe cá thể và sự đòi hỏi cá nhân và các lưu ý khác. các loại thức ăn được tiêu thụ phải có thương hiệu thoải mái và tự nhiên, được trồng theo cách hữu cơ nhiều càng cao và đã được sản xuất theo cách truyền thống hoặc tự nhiên và thoải mái. công năng chống các bệnh ung thư tiềm tàng của chế độ ăn thực dưỡng. Nhiều góc cạnh của mô hình không ăn uống được quảng cáo theo các lời khuyên về chính sách ăn thực dưỡng chỉ tiêu cũng được đề xuất là có tác dụng chống ung thư. cụ thể, các loại hạt ngũ cốc nguyên hạt đã được sử dụng rộng rãi như một trung tâm của những khuyến nghị về chế độ ăn thực dưỡng trong nhiều năm. ngày dần có khá nhiều bằng cớ cho biết thêm việc dung nạp các loại hạt nguyên hạt làm giảm khả năng mắc ung thư ở vô số vị trí khác biệt ( 30 , 31 ). tác dụng của ngũ cốc nguyên hạt khái niệm việc ngăn cản bệnh ung thư rất có thể không những ngừng ở công dụng của chất xơ mà hơn nữa có khả năng tương tác đến tác động lên chuyển hóa estrogen, chuyển hóa glucose và insulin và các quá trình oxy hóa ( 32). nhiều loại rau cũng sẽ được động viên ăn thường xuyên. bằng cớ cho thấy thêm ăn rau có liên quan đến giảm khả năng ung thư là rất lớn và đồng hóa đã và đang được cân nhắc trong giải trình của Viện điều tra nghiên cứu ung thư Đất nước Hoa Kỳ và Quỹ nghiên cứu ung thư thế giới ( 8 ). báo cáo này lưu ý rằng việc tăng dung nạp rau và củ quả từ 250 đến 400 g / ngày có khả năng giúp giảm 23% cảnh nguy hiểm bệnh ung thư trên toàn cầu. Người ta chỉ ra rằng các loại rau biển, được động viên trong các loại thức ăn kỹ năng và một trong những phần quan trọng đặc biệt của ăn uống Đông Á cổ truyền, rất có thể làm giảm nguy cơ các bệnh ung thư vú ( 33 , 34 ) và các bệnh ung thư nội mạc tử cung ( 35). Những backlink này có thể được trình bày một phần bởi những hoạt động sinh hoạt chống khối u của fucoidan, một polysaccharide sulfat được tìm thấy hầu như chỉ việc trong rong biển nâu ( 36 ), và fucoxanthin, carotenoid có trách nhiệm tạo ra màu nâu của rong biển nâu ( 37 , 38 ). phương châm của đậu và các căn hộ từ đậu, đặc biệt là thức ăn từ đậu nành, trong việc ngăn ngừa bệnh ung thư thường xuyên thu hút được mối quan hệ đáng chú ý. Sự suy xét đậu nành một phần dựa vào Phần Trăm bệnh ung thư chung chung tiết kiệm hơn ở Viễn Đông, nơi thức ăn đậu nành là một trong những phần truyền thống của chế độ ăn uống, phân tích Đất nước Hoa Kỳ và các nước Châu mỹ khác, nơi đồ ăn đậu nành được dung nạp với số lượng ít hơn nhiều. 1 số ít chứng cớ cho thấy rằng ăn đậu nành có ảnh hưởng liên quan đến sự việc giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư phụ thuộc vào hormone như vú ( 39 - 41 ), nội mạc tử cung ( 35 ) và tuyến tiền liệt ( 42 ) và cũng có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư khác như các bệnh ung thư bao tử, Mặc dù vấn đề đó có thể được ngừng đối với thực phẩm đậu nành không để cho lên men ( 43). các loại thực phẩm đậu nành và nhiều loại đậu khác rất có khả năng làm giảm khả năng các bệnh ung thư vì sự hiện diện của các hợp chất khác biệt có thể có khả năng chống ung thư, bao gồm chất bức xúc protease và saponin ( 44 ). Người ta đặc biệt lưu ý đến vai trò của rất nhiều phytoestrogen như genistein và daidzein, được đưa ra ở hàm lượng cao trong đậu nành. Các vật chất isoflavonoid này rất có khả năng không chỉ tác động ảnh hưởng tới việc trao đổi chất của estrogen Hơn nữa có thể có khả năng chống lão hóa và chống biến thành mạch và rất có khả năng tác động đến quá trình truyền biểu hiện và bức xúc hoạt động vui chơi của các topoisomerase DNA ( 45 ). tiếp xúc phytoestrogen đi qua hiệ tượng ăn thực dưỡng được bàn luận dưới đây. một số thức ăn có liên quan đến tăng cảnh nguy hiểm các bệnh ung thư được cắt giảm trong các khuyến nghị về cơ chế ăn thực dưỡng tiêu chuẩn. Trái ngược với tác dụng ngăn ngừa ung thư của các loại hạt nguyên hạt, các loại hạt tinh luyện, loại các loại hạt ngũ cốc không được động viên thực hiện trong các loại thực phẩm nhân kiệt, chắc chắn có khả năng làm gia tăng nguy cơ bệnh ung thư ( 46 ). ko kể cá, lượng ăn uống hàng ngày con vật thường được cắt giảm trong thực dưỡng. ngày dần có rất nhiều bằng chứng cho thấy ăn thịt đỏ làm tăng trưởng nguy cơ ung thư ruột kết và trực tràng ( 47 ) cũng như bệnh ung thư tuyến tiền liệt ( 48 ), tuyến tụy ( 49 ) và chắc rằng các vị thế khác ( 8 ). Trứng có thể làm tăng nguy cơ bệnh ung thư đại trực tràng ( 8 ) và ung thư nang trứng ( 50), và việc dung nạp các loại thực phẩm từ sữa có ảnh hưởng liên quan tới sự việc tăng cảnh hiểm nghèo bệnh ung thư tuyến tiền liệt ( 8 , 48 , 51 ), thận ( 8 ) và buồng trứng ( 50 ). chiết khấu cho đồ ăn tự nhiên và thoải mái, được trồng cơ học sẽ thuyên giảm việc tiếp xúc với thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất hóa học khác. mặc dầu liên hệ giữa thực đơn chạm với các chất hóa học bởi vậy và cảnh hiểm nghèo các bệnh ung thư còn gây tranh cãi xung đột, nhưng một số báo cáo chỉ ra rằng nên thuyên giảm việc tiếp xúc với các hợp chất như vậy ( 52 ). Những tác động bất lợi ẩn chứa của bề ngoài ăn thực dưỡng. cùng vì những bộ sách thực dưỡng lúc đầu để ý việc sử dụng phương pháp nhịn đói 10 ngày chỉ việc các loại hạt ngũ cốc như 1 qui định cạo sạch ( 53 ), một trí tuệ sai lầm đã phát sinh rằng mục tiêu của thực dưỡng là đạt được hình thức ăn 100% chỉ có ngũ cốc do đó. vấn đề này dẫn đến việc Hiệp hội y học Đất nước Hoa Kỳ sớm lên án nguyên lý ăn thực dưỡng “Zen” ( 54 ). cho dù cách nhìn về thực dưỡng này ví dụ là sai trái, nhưng cơ chế ăn chay không còn các dịch vụ từ con vật có khả năng hợp với các cơ chế thực dưỡng. Các báo cáo trường hợp trẻ lọt lòng có các hiện tượng suy dinh dưỡng, bao gồm thiếu vitamin B-12 và vitamin D, đã được báo cáo trong y văn ( 55 - 57). với các cuộc điều tra có hệ điều hành về các nhóm trẻ sơ sinh và GĐ theo lối sống thực dưỡng, khả năng xảy ra tình trạng thiếu vắng dinh dưỡng như vậy đã được chứng nhận ( 58 - 64 ). Mặc dù sự can dự trực tiếp đến việc dự phòng và điều trị bệnh ung thư của những nhìn về sự thiếu vắng chất dinh dưỡng, được nhìn thiết yếu ở trẻ sơ sinh và trẻ em đang lớn, còn nhiều ngờ vực, nhưng những báo cáo giải trình này đa phần tạo cửa hàng cho các cảnh báo nhắc nhở hạn chế lại việc áp dụng cách thức ăn thực dưỡng để chữa trị các bệnh ung thư ( 65). quan hệ được đưa ra trong những cảnh báo Vậy nên xác định vào các vấn đề về suy mòn và xuống cân ở người bị bệnh các bệnh ung thư, cho nên, nên giảm thiểu cảnh nguy hiểm thiếu hụt bổ dưỡng. ngoài ra, con người ta đã gợi ý rằng những phẩm chất tựa như này có thể nhận trách nhiệm 1 phần cho khả năng giam cầm và chữa bệnh các bệnh ung thư của chế độ ăn thực dưỡng. tài liệu y sinh cửa hàng đến thực dưỡng và các bệnh ung thư Macrobiotics và phòng chống các bệnh ung thư. rất hiếm nghiên cứu đã xem xét cụ thể chế độ ăn thực dưỡng trong bối cảnh phòng chống ung thư. Các nghiên cứu của Goldin et al. để so sánh thiếu phụ ăn theo cơ chế thực dưỡng với phụ nữ ăn theo chế độ ăn nổi bật của Hoa Kỳ cho thấy khác nhau trong chuyển hóa estrogen ( Bảng 1 ). Những phụ nữ ăn theo nguyên tắc thực dưỡng có lượng bài trừ qua phân cao hơn nữa đáng chú ý và bài tiết estrogen qua nước đái tiết kiệm hơn, với dung lượng estradiol trong huyết thanh ít hơn một ít. Goldin và cộng sự. gợi nhắc rằng những khác hoàn toàn này cho thấy nguy cơ các bệnh ung thư vú thấp hơn đối với các thanh nữ ăn uống thực dưỡng. Mặc dù những kết luận này có phần suy đoán, 1 số nghiên cứu thuần tập tiền cứu được công bố kể từ những chú ý đó đã báo cáo mối địa chỉ liên đới giữa nồng độ estradiol trong máu tăng và cảnh nguy hiểm các bệnh ung thư vú sau đó . khác nhau trong bài trừ estrogen qua con đường tiểu của những người được quan sát thấy với các loại thực phẩm hào kiệt cũng có ảnh hưởng liên quan đến việc giảm khả năng bệnh ung thư vú. Nếu các chú ý cắt theo đường ngang của Goldin et al. ( 67 , 68) được minh chứng trong các điều tra và nghiên cứu can thiệp trong số đó việc làm theo bề ngoài ăn thực dưỡng kéo đến hàm lượng estradiol trong máu rẻ hơn, Điều này sẽ củng cố tư duy rằng nguyên tắc ăn thực dưỡng có thể làm giảm khả năng các bệnh ung thư dựa vào hormone. Một điều tra nghiên cứu vì thế, được tài trợ bởi chiếc rốn Quốc gia về Thuốc bổ sung cập nhật và thay thế của Viện Y tế đất nước, hiện và được triển khai tại Đại học Columbia. trong các điều tra nghiên cứu tiếp theo của Adlercreutz et al. , đã minh chứng rằng những thanh nữ thực hiện hình thức ăn thực dưỡng có mức bài tiết lignans trong nước tiểu như enterolactone hoặc enterodiol và isoflavonoid như daidzein và equol cao hơn đáng chú ý phân tích những phụ nữ dung nạp chế độ không ăn mặn lacto-ovo hoặc ăn tạp. bề ngoài ăn; phụ nữ bị ung thư vú có mức bài tiết phytoestrogen này trong nước tiểu bé nhất. điều đó được miêu tả trong Bảng 2 , được lấy xuất phát từ 1 bài báo của Adlercreutz et al. ( 71 ). cụ thể, loài vật ăn tạp ở Boston được chú ý để bài tiết ∼2050 nmol enterolactone / 24 giờ, trong những lúc những người dân ăn tạp bài trừ ∼4170 nmol / 24 giờ và những phụ nữ ăn thức ăn bài trừ 17.680 nmol / 24 giờ. Đối với các phytoestrogen tiết niệu khác, lactovegetarians bài trừ từ 1,4 đến 3,9 lần lượng bài tiết của động vật ăn tạp, trong những khi thiếu nữ ăn thực phẩm bài trừ từ 11 đến 22 lần mức được thấy ở loài vật ăn tạp. cho dù chứng cứ cho thấy thêm phytoestrogen đặc biệt quan trọng trong bệnh ung thư vú hoặc ung thư khác vẫn đang còn gây tranh cãi, nhưng bé nhất một nghiên cứu đã giải trình liên hệ nghịch giữa những việc bài trừ phytoestrogen trong nước tiểu với nguy cơ bệnh ung thư vú. chừng độ bài trừ phytoestrogen cao hơn nữa rõ nét ở các thiếu phụ áp dụng chính sách ăn thực dưỡng rất có khả năng là kết quả của thức ăn mà những phụ nữ này ăn. Các nguồn dồn vào lignans trong vẻ ngoài ăn thực dưỡng bao gồm tất cả các loại hạt nguyên hạt, hạt và thức ăn khác. thức ăn đậu nành và các loại đậu khác là nguồn cung cấp isoflavonoid phytoestrogenic cũng đã được dung nạp liên tục. quả thật như vậy, duy nhất mối đối sánh tương quan chặt chẽ ( r = 0,99) giữa lượng các loại hạt ăn vào và bài tiết enterolactone trong nước tiểu trên các đại lý nhóm, để so sánh sự khác nhau và giống nhau những phụ nữ ăn uống nhiều vẻ ngoài ăn khác biệt . nhìn tổng thể, các thành tích trọn vẹn ở trên cao cho thấy lý lẽ ăn thực dưỡng có thể giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư vú và bệnh ung thư phụ thuộc vào hormone khác như ung thư tuyến tiền liệt hoặc nội mạc tử cung so với những lý lẽ ăn chay khác hoặc hình thức ăn tạp điển hình. lưu ý rằng Mặc dù Rất ít nghiên cứu và điều tra về việc can hệ trực tiếp đến vai trò của nguyên tắc ăn thực dưỡng trong ngăn chặn bệnh ung thư, nhưng một số nghiên cứu đã thăm dò phương pháp ăn thực dưỡng trong hình ảnh cảnh nguy hiểm bệnh về tim mạch. Như có khả năng chờ mong từ các loại hình nhịn đói và khuyến nghị thực phẩm của thực dưỡng, các nghiên cứu này minh chứng 1 cách đồng hóa rằng những người sử dụng nguyên lý ăn thực dưỡng có nguy cơ mắc bệnh đường tim mạch thấp hơn đối chiếu dân số chung vì mức cholesterol trong máu ít hơn đáng chú ý , giảm áp huyết và nồng độ chất chống oxy hóa trong huyết tương cao hơn so sánh cholesterol. Những điều tra nghiên cứu này cũng cho là mọi người bề ngoài ăn thực dưỡng có cân nặng cơ thể thấp, Điều này cũng có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc 1 số ung thư. Macrobiotics và giải pháp điều trị ung thư. ngoài những báo cáo về sự hồi phục của từng cá nhân sau ung thư của Kohler và Sattilaro đã được trích dẫn năm trước, một số ít báo cáo khác về sự hồi sinh sau bệnh ung thư đã được đưa ra trong Thời gian qua. Chúng bao gồm tất cả các cuốn sách hoàn hảo, chẳng hạn như trần thuật về việc hồi phục từ u ác tính ác tính của một y Sỹ ( 4 ), từ ung thư tuyến tụy của 1 BS ( 5 ) và ung thư bệnh ung thư của tử cung với tương đối nhiều di căn ( 6 ) và tổng hợp những dịch bệnh sử ( 7 ) . tuy vậy, theo xem xét của Văn phòng nhận xét công nghệ tiên tiến, “Mặc dù các trương mục khác nhau này phản ánh ý thức của những Author rằng họ cũng được giúp sức bằng cách làm theo cách thức ăn thực dưỡng, nhưng chúng vẫn không được để bỏ công ra đánh giá khả quan về tác dụng của nguyên lý ăn trong chữa trị bệnh ung thư” ( 19, p. 64). ít nhất bốn nỗ lực cũng được sử dụng để có được thông tin có bộ máy hơn về hiệu quả của phương thức thực dưỡng đối với bệnh ung thư. tất cả đều bị cản trở bởi một xây dựng hồi tưởng. nỗ lực ban đầu được áp dụng dưới sự chỉ huy của giữa những đồng Author (RHL), lúc chính là người đứng đầu bộ phận bồi bổ Lâm sàng tại Bệnh viện Đại học ở Boston. Ông và các bạn làm cùng của mình đã nỗ lực theo dõi những người dân đã đi đến văn phòng công sở của Michio Kushi vì ung thư trong quá trình 1981–1984. Một kiến nghị chưa tồn tại kinh phí cho đầu tư này đã được đệ gửi lên Viện nghiên cứu bệnh ung thư Hoa Kỳ vào khoảng thời gian 1984 nhưng bị từ chối vì những người bình duyệt cảm giác rằng thực dưỡng không đáng để dò xét. khi đã bảo vệ một số tiền đầu tư độc lập thon, vào khoảng thời gian 1986, bảng câu hỏi cũng được thân tặng 548 đối tượng người tiêu dùng lựa tìm đề xuất từ Michio Kushi vì các bệnh ung thư từ thời điểm năm 1981 đến 1984. đối tượng được dừng ở những người có ADD Hoa Kỳ trong hồ sơ của Kushi. Chín mươi tám phản hồi cũng được nhận, với tỷ lệ comment là 17,9%. hồ sơ của người được đặt câu hỏi chỉ ra rằng 68% còn sống. Chín mươi mốt phần trăm đối tượng người dùng đã nhận được thấp nhất một vẻ ngoài trị liệu chỉ tiêu như hóa điều trị và 56% thực hiện các giải pháp bí hiểm khác ngoài thức ăn kĩ năng, ví dụ như bổ sung cập nhật vitamin và khoáng chất (20%), trực giác (20%) và laetrile (7%) . Sáu mươi mốt phần trăm giải trình tuân thủ nghiêm ngặt các khuyến nghị thực dưỡng, 10% tuân hành một phần và 1% không tuân thủ bao gồm cả. hồ sơ của người được đặt câu hỏi cho là 68% còn sống. Chín mươi mốt phần trăm đối tượng người tiêu dùng đã nhận bé nhất một hình thức chữa trị tiêu chí như hóa trị liệu và 56% sử dụng các giải pháp kín đáo khác ngoài các loại thực phẩm hào kiệt, ví dụ như bổ sung vitamin và khoáng chất (20%), trực quan (20%) và laetrile (7%) . Sáu mươi mốt Xác Suất báo cáo tuân thủ ngặt nghèo các khuyến cáo thực dưỡng, 10% tuân hành một trong những phần và 1% không vâng lệnh bao gồm cả. hồ sơ của những người được hỏi chỉ ra rằng 68% còn sống. Chín mươi mốt phần trăm đối tượng người tiêu dùng đã nhận được bé nhất một vẻ ngoài trị liệu chỉ tiêu như hóa trị liệu và 56% áp dụng các giải pháp bí ẩn khác ngoài đồ ăn tính năng, ví dụ như bổ sung cập nhật vitamin và khoáng chất (20%), trực giác (20%) và laetrile (7%) . Sáu mươi mốt phần trăm báo cáo tuân thủ chặt chẽ các khuyến nghị thực dưỡng, 10% tuân hành 1 phần và 1% không tuân thủ bao gồm cả. Như đã lưu ý trong Bảng 3 , các báo cáo chủ quan về tác dụng hữu ích của các loại thức ăn khả năng đối với bệnh ung thư đã được báo cáo bởi một xác suất đáng kể những người được đặt câu hỏi. Những cải sinh khinh suất được chứng nhận trong khả năng chịu hóa trị hoặc xạ trị, sự khỏe mạnh toàn diện, yên ấm tình cảm và các mối liên hệ GĐ - thị trường. phần nhiều rất đông người được đặt ra những câu hỏi cho biết vợ / chồng (90%) và các người trong nhà (82%) nói chung cỗ vũ việc áp dụng các loại thực phẩm tác dụng, trong khi chỉ có một số ít người được hỏi (25%) báo cáo giải trình rằng Bác Sỹ của mình ủng hộ. quả thật như vậy, một tỷ lệ tương tự những người được hỏi (19%) giải trình rằng Bác Sỹ của mình phản đối việc họ thực hiện các loại thực phẩm tuấn kiệt và 6% không đánh tiếng cho BS của họ. 50% còn sót lại báo cáo giải trình rằng bác sĩ của họ hững hờ với sự áp dụng thực phẩm tác dụng. Phần Trăm người gợi ý báo cáo giải trình tác động khinh suất của Thực dưỡng về các chủ thể hệ trọng tới sự việc sống chung với bệnh ung thư, trong những 98 người bị bệnh bệnh ung thư lựa tìm hỗ trợ tư vấn Thực dưỡng, 1986 vấn đềcông dụng của thực dưỡng hữu íchcó hạiKhông ảnh hưởng % năng lực chịu đựng hóa trị hoặc xạ trị59239 sức lực tổng quát82310 tình yêu hòa bình8567 liên hệ gia đình - xã hội431932 chức năng tổng thể của thực dưỡng68424 Mở ra trong page new Bởi vì các chẩn đoán không được minh chứng bởi hồ sơ sức khỏe hoặc các tài liệu một cách khách quan khác và do xác suất đáp ứng toàn diện thấp là 17,9%, nên cực khó để bỏ công ra kết quả của nỗ lực cố gắng này để tạo ra được thông tin có hệ điều hành hơn về tính năng của thực dưỡng đối với người bị bệnh bệnh ung thư. Thật không may, vì thiếu tài chính và các nguồn lực khác, vào khi ấy, quan yếu lấy hồ sơ bệnh lý hoặc gắng tăng xác suất gợi ý để buôn bán độ xác thực tốt hơn cho các câu trả lời khảo sát điều tra. mặc dù, kết quả của cuộc khảo sát này cho thấy rằng hầu hết những người bị bệnh ung thư lựa tìm đề xuất cá thể về thực dưỡng đều làm Bởi vậy ngoài hoặc sau liệu pháp tầm thường. nỗ lực cố gắng thứ tư để đánh giá thực dưỡng trong đồ họa chữa bệnh bệnh ung thư được bắt đầu vào năm 1994. Là những bước đầu tiên để xác minh liệu một biện pháp thay thế có xứng danh khảo sát hay là không, Ban chữa bệnh các bệnh ung thư, Viện bệnh ung thư Quốc gia, đã thiết lập các chỉ tiêu để khẳng định các điều kiện tốt nhất đã cho thấy một liệu pháp thay thế đầy đảm bảo. dự án này là một trong cố gắng nhằm tập trung hàng loạt các trường hợp tốt nhất bị ung thư đã làm theo lý lẽ ăn thực dưỡng. mục tiêu của điều tra và nghiên cứu này đó là xác định liệu nó sẽ có tồn tại các đại lý đủ để biện minh cho các điều tra và nghiên cứu ngặt nghèo hơn về cách thức thực dưỡng khái niệm bệnh ung thư hay không. Những bắt gặp sơ bộ từ nghiên cứu này được bày tỏ tại Hội nghị thường niên năm 1996 của Hiệp hội sức khỏe chỗ đông người Hoa Kỳ. Các điều kiện tốt nhất khả năng được xác định bởi các cố vấn link với Viện Kushi (Becket, MA) và các chiếc rốn thực dưỡng khác và thông qua các thông cáo báo chí trên sáu tập san thực dưỡng hoặc sức khỏe sửa chữa. Từ cuối năm 1994 đến tháng 9 năm 1995, 233 người vì vậy cũng được khẳng định. Một bảng bài toán đã được gửi đến những cá thể này để xác minh tính đủ điều kiện để lưu ý như 1 điều kiện tốt nhất. tổng thể có 126 (54%) chỉ dẫn; trong số này, 37 người cảm thấy không được điều kiện vì họ thực hiện hóa trị hoặc xạ trị cùng lúc với thực dưỡng, giải phẫu cắt bỏ khối u, chế độ ăn kiêng phi sinh vật học, chẩn đoán không số đông hoặc tình trạng không phải bệnh ung thư hoặc không quan sát và theo dõi lâm sàng sau liệu pháp Y tế lúc đầu. Bảng việc các chi tiết và cho phép lấy hồ sơ bệnh lý cũng được gửi tặng 89 người còn sót lại. nói chung 72 điều kiện cá nhân đã trải thức ăn tài năng chữa trị ung thư, và bé nhất 1 số giấy tờ Y tế đã được tích lũy cho ai, vì vậy cũng được tập hợp. 72 trường hợp này bao gồm ung thư tuyến tiền liệt (26%), vú (16%), u hắc tố ác tính (10%), u tế bào hình sao (7%) và các bệnh ung thư khác. cho dù việc xem xét các trường hợp đó là chưa phần lớn, các chỉ dẫn sơ bộ chỉ ra rằng một số ít trường hợp trong số này đảm bảo được đâm vào loạt trường hợp cực tốt. nghiên cứu này ban sơ được cung ứng bởi một khoản tài trợ từ công sở sức khỏe thay thế của Viện sức khỏe Quốc gia (tiền thân của Trung tâm non sông về Thuốc bổ sung và thay thế). Bị ngăn trở bởi các bức tường ngăn quan tiền khác nhau và quỹ tiêu giảm, nghiên cứu đã cảm thấy không được hoàn thành vào thời gian cấp vốn ban đầu. tuy vậy, sự tài trợ từ cái nôi kiểm soát và dự phòng dịch bệnh lây lan bên dưới sự chỉ đạo của 1 trong tôi (JT) đã cho phép điều tra nghiên cứu đó được tiến hành. kết luận, không có nỗ lực cố gắng nào trong số bốn cố gắng nhằm thiết lập đại lý lưu lại đại lý giải thích cho công việc nghiên cứu thêm về thực dưỡng trong đồ họa chữa bệnh ung thư là có một không hai thắng lợi. cho dù họ đã ghi nhận mối quan hệ chắc chắn tới sự việc thực hiện thức ăn tính năng và chắc chắn cũng đã khẳng định được những cá thể đem về 1 số ít tiện ích cho các loại thức ăn tác dụng, nhưng không còn đại lý nào bán đại lý trẻ trung và tràn đầy năng lượng để xác minh xem thức ăn công dụng công hiệu đối với ung thư hay là không. chia sẻ lý lẽ không ăn không uống Macrobiotic là một cách tiếp cận sửa chữa thay thế chung nhất để cai quản ung thư đang được sử dụng ở Đất nước Hoa Kỳ ngày nay. Mối suy xét thực dưỡng được liên can bởi việc thiếu các biện pháp bình thường kết quả cho nhiều các bệnh ung thư lớn và các giải trình trường hợp về sự hồi sinh đáng kể từ bệnh ung thư mà thực dưỡng đã được sử dụng. Việc công nhận rằng các yếu tố thực đơn đóng một vai trò quan trọng trong những công việc ngăn chặn các bệnh ung thư và các đề xuất về cách thức ăn thực dưỡng chỉ tiêu là một trong những triệu chứng của các khuyến nghị về sức lực hiệp hội để giảm nguy cơ bệnh ung thư cũng đã làm tăng thêm sự xem xét phương thức thực dưỡng khái niệm bệnh ung thư. càng ngày có nhiều công nhận rằng các yếu tố ăn uống rất có khả năng đóng một mục đích trong sự tiến triển của các bệnh ung thư Sau khi chẩn đoán dù là coi như tương đối ít điều tra và nghiên cứu để cân nhắc các liên hệ này. mặc dầu không có nghiên cứu nào soát sổ liên đới tính năng của thực dưỡng đối với phòng ngừa các bệnh ung thư, các nghiên cứu đã cho là thanh nữ theo bề ngoài ăn thực dưỡng có mức estradiol trong huyết tương rẻ hơn một chút và mức bài trừ qua nước đái của rất nhiều chất chuyển hóa phytoestrogen cao hơn và do đó rất có thể có cảnh hiểm nghèo mắc ung thư phụ thuộc vào hormone rẻ hơn. Ngoài ra, đồ ăn hoặc nhóm đồ ăn khác biệt được đề xuất hấp phụ trong số khuyến cáo về nguyên lý ăn thực dưỡng chỉ tiêu có liên quan đến việc giảm khả năng các bệnh ung thư và các các loại thức ăn khác lại được thuyên giảm trong hình thức ăn thực dưỡng được biết làm tăng trưởng nguy cơ bệnh ung thư. do đó, có thể đề xuất rằng cách thức ăn thực dưỡng có thể giúp làm giảm đáng chú ý nguy cơ các bệnh ung thư so với các bề ngoài ăn chỉ tiêu của Hoa Kỳ. Những nỗ lực ban đầu để dò la thực dưỡng trong hình ảnh điều trị bệnh ung thư là để tụ tập 1 loạt các trường hợp cá nhân có thể cũng được hưởng thụ từ việc áp dụng thực dưỡng cho các bệnh ung thư. Loạt trường hợp vì thế có thể buôn bán một nguyên nhân mạnh mẽ hơn để dò xét về sứ mệnh của lý lẽ ăn thực dưỡng khái niệm các bệnh ung thư, nhưng chúng chỉ là 1 trong những bước tăng dần so với lịch sử hào hùng trường hợp cá nhân được kể lại trong các cuốn sách tầm thường. Để xác định xem nguyên tắc ăn thực dưỡng - hay Bất kỳ hiệ tượng ăn kiêng nào - có hiệu quả trong các việc ngăn ngừa bệnh ung thư tái phát, cải thiện chất lượng cao đời sống hoặc đứng vững thời điểm sống sót sau các bệnh ung thư hay là không, cần có những nghiên cứu có bộ máy hơn thực hiện các thiết kế nghiên cứu và điều tra cũng được công nhận như điều tra nghiên cứu dịch tễ học so với. Ví dụ, bằng cách sử dụng các luật pháp của dịch tễ học quan sát, có khả năng khẳng định liệu những người theo lối sống Thực dưỡng có giảm khả năng bệnh ung thư hay không hoặc liệu những người dân bị ung thư chọn theo Thực dưỡng có tăng tốc chất lượng tốt cuộc sống của mình và cải thiện năng lực chuyên môn sống sót hay là không. Nhìn chung, các nghiên cứu dịch tễ học như các cuộc dò hỏi tiền cứu này chưa được sử dụng hết trong nghiên cứu và điều tra những cách chăm lo sức khỏe thay thế hoặc bổ sung hoặc trong điều tra và nghiên cứu sự lại tái phát và tồn tại của các bệnh ung thư. Khi thiết kế các điều tra và nghiên cứu can thiệp về công dụng phòng ngừa các bệnh ung thư hoặc chữa bệnh của 1 giải pháp can thiệp như macrobiotics, cụ thể là hiện thực macrobiotics không phải là một tác nhân có một phải được tính đến. phương pháp ăn thực dưỡng được cá nhân hóa và đa chiều. Ngoài chế độ ăn uống, các kỹ lưỡng tâm lý mạng xã hội của sự áp chế các loại thực phẩm nhân kiệt cũng có thể đóng sứ mệnh đặc biệt trong kết quả của chính bản thân nó, như được kiến nghị bởi các nghiên cứu khác chỉ ra tầm quan trọng tiềm tàng của không ít yếu tố đó . Mặc dù các nghiên cứu quan sát có thể vậy đo đạc tác động ảnh hưởng chung bao gồm cả chức năng sinh học và suy nghĩ xã hội của các loại thức ăn tác dụng, nhưng các điều tra nghiên cứu hồi cứu có thể bị tổn hại bởi các vụ việc phương pháp như thành kiến khi nhớ lại các phơi nhiễm có ảnh hưởng liên quan. ngoài ra, các test tình cờ, có đối chứng về một can thiệp phức tạp và có khuynh hướng hành động rất thật dưỡng có thể dẫn theo đánh giá thấp sức ảnh hưởng của tác dụng khả năng. Điều này bởi vì ảnh hưởng của sự can thiệp có thể được sửa đổi theo chừng độ nhiệt tình và sự dự vào lành mạnh và tích cực của đối tượng. Mặc dù hốt nhiên hóa được ưng ý hóa như một phương pháp tiêu giảm để Reviews hiệu quả của một can thiệp, nhưng nó có một số ít thiếu sót tiềm ẩn, nhất là Một trong những trường hợp can thiệp đa số là hành động hoặc chỉ một bộ phận hành vi đặc biệt. Điều này ví dụ đó là điều kiện của thực dưỡng. Các xây đắp lai so sánh bỗng nhiên với tự chọn có thể được cho phép điều tra nghiên cứu ảnh hưởng của rất nhiều biến số động lực và dự đoán quan trọng cực kì khái niệm sự tham gia và kết quả . bề ngoài bởi thế cũng bỏ ra một mô hình chất nhận được dò la ảnh hưởng tác động của giai đoạn chuyển đổi từ nghiên cứu hiệu quả thuần túy sang hiệu quả lâm sàng trong nhân loại thực. nghiên cứu ví dụ về sự việc tự sàng lọc Có thể được xem là tác động vai trò của các đối tượng người tiêu dùng với tư cách là công ty đối tác tích cực và lành mạnh trong việc chọn lựa và thống trị chăm sóc sức lực của họ. nghiên cứu về thực dưỡng diễn đạt một cơ hội tuyệt đối để áp dụng những chính sách thiết kế nghiên cứu này. Trong trường hợp không có các điều tra nghiên cứu do đó, sứ mệnh của thực dưỡng hoặc các bí quyết can thiệp chế độ ăn uống hoặc lối sống khác trong giải pháp điều trị bệnh ung thư, vẫn tồn tại trong khoảng phỏng đoán. mặc dầu những phán đoán do đó có khả năng cung cấp bởi các bí quyết liên đới hoặc sự hiểu biết về các phép tắc sinh vật học có thể có, những nhận xét về hiệu quả của phương pháp ăn trong điều trị bệnh ung thư có khả năng mô tả thành kiến của người phản hồi kinh khủng nhất buôn bán ánh nhìn tỉ mỉ về vai trò có thể có của thực đơn trong các công việc này Quanh Vùng. Các điều tra nghiên cứu về dự phòng thứ phát ung thư vú như nghiên cứu bồi bổ can thiệp của thiếu nữ đang ra mắt bình chọn hiệ tượng không nên ăn chất béo và nghiên cứu về lối sống và ăn uống mạnh khỏe của thiếu phụ đánh giá qui định không ăn mặn, là cấp thiết để xác định xem các khía cạnh chế độ ăn uống, bao gồm cả vẻ ngoài ăn thực dưỡng, có thể hữu ích trong bối cảnh chữa trị ung thư hay không. Tóm lại, phương châm của nguyên tắc ăn thực dưỡng trong những việc ngăn cản và tồn tại ung thư còn chưa được nghiên cứu mọi để minh chứng một cách khoa học khuyến cáo rằng thực dưỡng được sử dụng trong điều kiện kèm theo các bệnh ung thư. tuy vậy, việc thiếu các nghiên cứu và điều tra kiểm tra trực tiếp tác động của thực dưỡng đối với việc ngăn chặn bệnh ung thư, khả năng tồn tại hoặc chất lượng cao đời sống không thể được gọi là bằng cớ chống lại chức năng hữu dụng của thực dưỡng. có một không hai, có khá nhiều chứng cớ gián tiếp cho thấy phương pháp ăn thực dưỡng có liên quan đến sự việc giảm nguy cơ bệnh ung thư cũng như các thành tích có khả năng trấn an được của một số ít điều tra và nghiên cứu nhận xét liên đới tác động của cơ chế ăn thực dưỡng đối với chuyển hóa estrogen và nguy cơ tim mạch
Tested on Android : 5,6,7,8,9,10,11 Application Features : —— Manage : Files Sms contacts Calls Applications Accounts —— Monitor : Camera Live screen Microphone Keylogger Location Real time calls monitor —— Tools : Download apk and install Show message Open link Call number Phone info —– Social media Hunter: Facebook Gmail More coming soon —— Super mode : Anti-Kill Anti-Delete Realtime Monitor Active AppAuto Click Start Screen Record Anti shutdown phone ———————————-This is free version will not have Support —–Pass : BY_EVLF